Gần hai mươi triệu người Việt Nam phụ thuộc vào nước ở hạ
nguồn sông Mekong. Nhưng thượng nguồn bị kiểm soát bởi một quốc gia có cơn khát
vô tận.
"Chúng không chết nhưng cũng không lớn nổi", Hủ
nói, ném lại những con tôm bé hơn ngón tay út xuống hồ. Đó là lần thả lưới thứ
ba trong ngày, mới có vài con tôm vướng lưới.
Như nhiều nông dân khác ở Đồng bằng sông Cửu Long, Trần Văn
Hủ đã từng chuyển đổi từ hai vụ lúa sang một vụ lúa một vụ tôm, rồi cuối cùng
chuyển hẳn sang quảng canh tôm. Đất nhiễm mặn, cây lúa cho năng suất thấp. Nước
ngọt ngày càng khan hiếm mà cây lúa lại tiêu tốn nhiều nước.
Hủ vay ngân hàng, đổ tiền vào thiết bị, con giống; mua chịu
thức ăn công nghiệp. Nhưng anh chỉ có lãi hai năm đầu. Những mùa tiếp theo, sau
vài tháng xuống giống, tôm chết nổi kín mặt hồ, con còn sống thì quá bé, không
bán được.
Càng nuôi càng lỗ, hai vợ chồng Hủ bỏ ruộng lên Bình Dương
tìm việc. Họ bỏ lại sau lưng khoản nợ hai trăm triệu và đứa con 2 tuổi.
Hơn một năm qua, chỉ riêng xã Thới Quản, huyện Gò Quao, một
cán bộ tòa án nói cô đã xử lý gần 50 lá đơn đòi nợ từ các hiệu buôn vật tư nông
nghiệp và ngân hàng. Tất cả đều liên quan đến tôm. Hầu hết bị đơn đều đã rời địa
phương, toà tiến hành xử vắng mặt.
Hủ là một đại diện dễ gặp của những nông dân ở hạ nguồn sông
Mekong những năm qua. Mekong là một từ tiếng Khmer, với Mé nghĩa là "mẹ",
còn kông là biến thể của "kôngkea" (dòng sông). Dòng sông mẹ là nơi
hình thành nhiều nền văn minh của Đông Nam Á, và hiện trực tiếp nuôi dưỡng hơn
100 triệu người bằng nguồn nước của mình.
Số phận của vùng hạ lưu sông Mekong, gồm cuộc đời của những
nông dân Lào, Campuchia và Việt Nam đã là chủ đề thế giới quan tâm nhiều năm
qua. Ủy hội sông Mekong (MRC) thành lập năm 1957, với slogan súc tích:
"Cho sự phát triển bền vững". Nhưng nửa thế kỷ, Ủy hội vẫn chỉ có
Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam là thành viên.
Suốt nhiều thập niên, Trung Quốc - với 2.130 km sông Mekong
chảy trên lãnh thổ trong tổng chiều dài 4.880 km - chỉ tham gia vào Ủy hội với
tư cách "đối tác đối thoại", và dành thời lượng đối thoại để phủ nhận
các cáo buộc về tác động của họ đến hạ nguồn Mekong.
Nghề công nhân không giúp Hủ có hy vọng trả nợ. Sau 4 năm, vợ
chồng Hủ từ Bình Dương trở về, lại tiếp tục dọn hồ, thả giống tôm. Họ không có
lựa chọn khác ngoài đánh cược.
Nhưng suốt nửa năm, thả một thiên giống xuống, chỉ đổi lấy
tôm chết nổi mặt hồ. Một ngày nắng nóng đỉnh điểm tháng 5/2019, Hủ quẳng lưới
xuống hồ, để rồi hai lần vớt lên đều trống không. Trưa hôm đó, chỉ số độ mặn của
con nước Hủ đo tiếp tục vượt ngưỡng chịu đựng của con tôm.
Tháng 11/2015, báo Guardian của Anh trích lời một nông dân
miền Tây ẩn danh, như một biên bản ngắn gọn về đời nông dân trước sự thay đổi của
dòng sông: nước ngày càng mặn; trồng lúa không nổi; chuyển sang nuôi tôm cũng
không nổi; không còn sinh kế và thậm chí không đủ nước uống.
Vợ Hủ không muốn trông chờ vào con tôm nữa. Chị vẫn nghĩ,
quay lại Bình Dương làm công nhân là cách tốt nhất cho gia đình.
Đó là niềm tin chung của nhiều nông dân quê Hủ. Nơi đó, người
nữ cán bộ tòa án huyện thỉnh thoảng mang trát hầu tòa, cùng chủ hiệu buôn vật
tư nông nghiệp tìm những nông dân nuôi tôm. Họ chỉ thấy những căn nhà mái tôn
khóa cửa. Chủ nhà đã đi Bình Dương làm công nhân.
Thông tin mời hầu toà sau đó sẽ được đăng trên báo địa
phương và bảng thông tin của UBND xã. "Đăng cho đầy đủ thủ tục vậy thôi chứ
không bị đơn nào đọc được", người cán bộ nói.
Con tôm sống dở trên tay Hủ buổi trưa tháng Năm thật ra đã
được dự đoán số phận bởi Bộ Thủy lợi Trung Quốc - cơ quan kiểm soát nước trên đầu
nguồn Mekong.
Cuối tháng Tư năm nay, Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam phát
đi thông báo của Bộ Thủy lợi Trung Quốc: đến giữa tháng 4, lưu lượng xả ra ở thủy
điện Cảnh Hồng xuống hạ lưu sẽ giảm từ 25% đến 50%. Ảnh hưởng theo dự báo, là
nước mặn có thể vào sâu hơn ở miền Tây mùa hè này.
Cảnh Hồng chỉ là một đập trung bình trong số khoảng hai mươi
đập thủy điện đã và đang được xây dựng trên dòng Lan Thương - tên gọi trên đất
Trung Quốc của dòng Mekong.
Từ những năm 1990, trong nỗ lực đẩy mạnh công nghiệp và đô
thị hoá, Trung Quốc ồ ạt xây dựng đập thủy điện. Nhiều chuyên gia môi trường nước
này ví làn sóng xây thuỷ điện với phong trào luyện thép trong Đại Nhảy Vọt năm
1958.
Đã có hàng ngàn con đập lớn nhỏ, nhưng con số sẽ không dừng
lại. Với tình trạng ô nhiễm không khí do nhiệt điện than, thuỷ điện vẫn được
xem là trọng tâm trong chính sách năng lượng mới của Trung Quốc.
![]() |
Một số đập thủy điện đã và chuẩn bị đưa vào vận hành trên thượng nguồn sông Mekong. Nguồn: International Rivers. |
Từ biên giới Lào-Trung Quốc ngược về hướng Bắc theo dòng Lan
Thương chưa đến 1.000 km đã có 10 đập thủy điện. Có những đập siêu lớn như Tiểu
Loan, công suất 4200 MW, hay Nọa Trát Độ, công suất 5850 MW. Chúng đều nằm
trong top 10 đập thủy điện lớn nhất hành tinh. Trong khi đó, nhà máy thủy điện
Sơn La lớn nhất Việt Nam chỉ có công suất 2400 MW.
Trung Quốc đã nhiều lần phủ nhận ảnh hưởng của các đập này tới
hình thái của dòng sông. "Việc hạ mực nước sông Mekong không liên quan gì
đến việc phát triển đập thủy điện" - thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tống
Đào nói trong hội nghị của Ủy hội Mekong năm 2010, khi Trung Quốc vừa xây xong
đập Tiểu Loan.
Nhiều năm nghiên cứu về sinh thái, TS. Dương Văn Ni - Khoa
Môi trường và tài nguyên thiên nhiên, ĐH Cần Thơ - nhận định, có nhiều nguyên
nhân dẫn đến các địa phương ở đây nuôi tôm thất bại, một trong số đó là thượng
nguồn.
Đập thuỷ điện giữ nước vừa khiến nồng độ mặn cao lên vừa làm
cho lượng nước về hạ nguồn suy giảm, không đủ để đẩy trôi những chất bẩn tồn đọng
trên dòng sông. "Dòng sông bây giờ như ao tù bị ô nhiễm. Khó có loài thuỷ
sản nào sinh sống tốt ở môi trường này", ông Ni nói.
Phù sa là một vấn đề nghiêm trọng khác. Ngay khi Mạn Loan -
con đập đầu tiên được Trung Quốc xây trên Lan Thương - hoàn thành năm 1993, lượng
phù sa về Đồng bằng Sông Cửu Long đã suy giảm rõ rệt.
Theo Uỷ hội sông Mekong, các đập thủy điện ở thượng nguồn đã
làm giảm hơn một nửa lượng phù sa ở hạ nguồn, từ 160 triệu tấn/năm vào năm
1992, xuống còn 80 triệu tấn/năm vào năm 2014. Bộ Tài nguyên và Môi trường ước
tính, đến năm 2040, khi các công trình thủy điện ở dòng chính Mekong được vận
hành, Đồng bằng Sông Cửu Long gần như không còn phù sa.
Các con đập cũng làm độ biến thiên nhiệt độ của nước sông
tăng lên, theo ghi nhận của Tổ chức các dòng sông Quốc tế (IR). Sự thay đổi nhiệt
độ nước sẽ tác động đến môi trường sống của các loài thuỷ sản ở hạ nguồn.
Năm 1952, khi thị sát sông Hoàng Hà, Mao Trạch Đông từng gợi
ý: "Nước dồi dào ở phương Nam, phương Bắc lại thiếu, tại sao không dẫn một
ít nước từ Nam lên Bắc?".
Phương Bắc Trung Quốc khát nước. Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà Bắc
những thủ phủ công nghiệp luôn phải đối mặt với cơn khủng hoảng nước. Chiếm gần
phân nửa dân số cả nước, hai phần ba diện tích đất nông nghiệp của Trung Quốc
nhưng lượng nước có được ở miền Bắc chỉ chiếm khoảng 20% tổng lượng nước toàn
quốc. Quốc gia này có địa hình thoải xuống phía Nam.
Chưa kể, theo International Rivers, 42% các con sông của
Trung Quốc bị ô nhiễm nghiêm trọng, ba phần tư hồ và hồ chứa không còn chức
năng sử dụng. Phòng Nguồn nước - Sở Thủy vụ Bắc Kinh khẳng định mỗi năm thành
phố này thiếu tới 1,5 tỷ mét khối nước.
Ý tưởng của Mao sau này được hiện thực hóa dưới đại dự án
mang tên "Nam Thủy Bắc Điều". Hàng chục tỷ USD đã được đổ cho việc
xây dựng các kênh dẫn hướng khổng lồ nối các dòng sông phía Nam lại và đưa nước
ngược lên phương Bắc.
Nước trở thành nhiệm vụ của mọi thế hệ lãnh đạo Trung Quốc.
"Thiếu nước là mối đe dọa tồn vong của quốc gia Trung Hoa", Ôn Gia Bảo
cảnh báo trước khi trở thành Thủ tướng nước này.
Tháng 12/2014, nước máy chảy ra từ những vòi ở Bắc Kinh, lần
đầu tiên được lấy ở cách đó hàng nghìn cây số. Truyền thông nước này nhận định,
cuộc khủng hoảng nước đã được ngăn chặn, Bắc Kinh đã được cứu. Chính quyền Bắc
Kinh tuyên bố khoảng 70% nguồn nước sinh hoạt của cư dân thành phố là từ sông
Dương Tử ở phía Nam. Nước từ phương Nam cũng đã tưới mát cả Thiên Tân, Hà Nam,
Hà Bắc.
![]() |
Sơ đồ dự án Nam Thủy Bắc Điều. Nguồn: Toàn cầu Thời báo. |
Hai tuyến dẫn nước, gọi là "Tuyến trung tâm" và
"Tuyến phía Đông", dài hơn một nghìn cây số, đã được hoàn tất. Tương
lai sẽ là một "Tuyến phía Tây", với dự định gộp nhiều dòng sông nhỏ
phía Tây nước này vào Hoàng Hà và Dương Tử.
Nhưng "Nam thủy" không chỉ nghĩa là nước ở phương
Nam Trung Quốc, mà thực chất là nước của cả các quốc gia phía Nam biên giới nước
này. Có khoảng 3 tỷ người sống phụ thuộc vào nguồn nước từ cao nguyên Thanh Tạng
của Trung Quốc.
Trong tính toán của Bắc Kinh, để làm dịu cơn khát của phương
Bắc, các đường dẫn nước của Nam Thuỷ Bắc Điều sẽ rút 200 tỷ mét khối nước mỗi
năm từ các dòng sông bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng: Yarlung Zangbo (chảy
qua Tây Tạng, Ấn Độ, Nepal, Bangladesh, Trung Quốc), Thanlwin (chảy qua Trung
Quốc, Myanmar, Thái Lan) và sông Mekong.
![]() |
Một kênh dẫn nước nhân tạo của Nam Thủy Bắc Điều tại Hà Bắc, Trung Quốc. Ảnh: SCMP. |
Xung đột liên quốc gia đầu tiên liên quan đến nguồn nước xuất
hiện với nước đông dân thứ 2 thế giới, Ấn Độ. Mực nước của sông Siang - tên gọi
của Yarlung Zangbo chảy qua Ấn Độ - năm 2017 đột nhiên giảm mạnh, dòng sông
chuyển màu, bị ô nhiễm. Các quan chức Ấn Độ cáo buộc Trung Quốc đang xây hầm
chuyển dòng Yarlung Zangbo từ Tây Tạng sang Tân Cương. Cáo buộc này không thể
được xác minh.
Nước của Mekong khi nào sẽ chảy về phương Bắc Trung Hoa? Các
chuyên gia môi trường đến từ nhiều tổ chức nghiên cứu Mekong đều nhận định, việc
lấy nước từ Lan Thương chưa bao giờ nằm ngoài kế hoạch của Nam Thuỷ Bắc Điều.
Tất cả đều quan ngại, cũng như các công trình thuỷ điện,
Trung Quốc sẽ không công khai đầy đủ quá trình xây dựng và thông tin vận hành dự
án.
Với các quốc gia hạ nguồn, đó sẽ luôn là một ẩn số. Đất nước
gác cổng Mekong đã từ chối tham gia vào Uỷ hội sông Mekong cùng với Việt Nam,
Lào, Campuchia, Thái Lan. Thay vào đó, Bắc Kinh tự đưa ra sáng kiến Hợp tác Lan
Thương-Mekong và điều phối chính tổ chức này.
Tháng Mười hai năm ngoái, một khoảnh căn chòi lợp lá dừa của
ông Nguyễn Văn Giúp ở Xóm Đáy (Cù Lao Dung, Sóc Trăng) rơi thẳng xuống sông Hậu.
Gia đình ông chạy kịp ra ngoài, thoát chết trong gang tấc.
Cây cột đặt máy bơm nước vốn được cắm trên mặt đất bỗng nằm
giữa sông. Con sông đã ngoạm những mét vuông đất cuối cùng. Lần này, ông Giúp
không thể dời chòi ra xa bờ sông thêm nữa. Sau lần sạt đó, căn chòi còn chưa đầy
18 mét vuông, nằm ngay bờ sạt lở.
"Tiến trình kiến tạo đồng bằng đã không còn nữa. Đồng bằng
Sông Cửu Long giờ đây tựa một mảnh vải đang từ từ mục rã", TS. Lê Anh Tuấn,
Phó viện trưởng Viện Biến đổi khí hậu, nói. Không còn sinh kế nông nghiệp không
phải là nguy cơ duy nhất chờ đón cư dân hạ nguồn Mekong.
Giữa tháng Ba năm nay, con sông lại tiếp tục nuốt chửng chỗ
đặt giường ngủ nhà ông Giúp. Hai chân giường giờ kê sát mé sông, cách mặt nước
hơn nửa mét, lúc nào cũng trong tình trạng ẩm ướt do nước hắt vào. Đồ đạc trong
nhà cũng được kê cao để tránh bị sóng to cuốn trôi.
Để sóng không đánh bay chỗ trú ngụ cuối cùng trên mặt đất, vợ
chồng ông lấy đá đè lên mái, lấy dây thừng neo vách vào cây bần mọc trên khoảng
sông nơi từng là sân trước.
Đứng ở phía sau chái nhà, chỉ tay ra khoảng sông Hậu mênh
mông cách đó hơn 200 m, ông Giúp bảo, mảnh vườn, căn nhà tường gạch của gia
đình ông từng nằm đó. Cái sân trước, nơi vợ chồng ông dựng rạp tổ chức đám cưới
con trai nay đã chìm gần hết dưới đáy sông, chỉ còn lại một khoảnh nhỏ để gia
đình ba thế hệ của ông cắm chòi cư trú.
Theo TS. Lê Anh Tuấn, việc giảm hàm lượng và tải lượng phù
sa bùn cát về hạ nguồn không chỉ làm suy giảm nguồn dinh dưỡng cho đất nông
nghiệp, nó còn làm vùng đất này "tan rã".
Đồng bằng được hình thành từ hơn 5.000 năm trước, do phù sa
sông Mekong bồi đắp. Mỗi năm đồng bằng lấn ra biển 50-70 m, nhưng hai thập niên
trở lại, hiện tượng này đã dừng và quay ngược lại.
"Hồ chứa nước ở các đập thượng nguồn như một cái bẫy giữ
lại phù sa. Một khi hàm lượng phù sa trong nước ít đi, dòng nước sẽ nhẹ hơn dẫn
đến mất cân bằng động dòng chảy, làm nước chảy nhanh hơn, cuốn theo đất hai bên
bờ và lòng sông dẫn đến hiện tượng sạt lở", ông Tuấn giải thích.
Xóm Đáy nằm ở cuối con sông Hậu bây giờ chỉ còn độ 1.000 mét
vuông, dù trước đó nó từng là một vùng đất rộng hơn thế gấp năm lần. Trong trí
nhớ của ông Giúp, bờ sông Hậu 10 năm trước khi lở khi bồi, bờ sông cách xa nhà
các hộ dân trong xóm chừng 100 m. Nhưng vài năm trở lại, nước thôi bồi, sông ăn
đến tận cửa nhà.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ước tính, sạt lở đang
uy hiếp 13 tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long. Mỗi năm, vùng đất này mất 300-500 ha đất,
hàng chục nghìn hộ dân phải di dời khỏi vùng nguy hiểm.
Những lần kè bờ bằng gốc dừa, bao đất không còn ăn thua với
con nước Hậu Giang. Bờ sông tiếp tục lở. Một số người chuyển đi. Nhiều người ở
lại sống trong tình cảnh như ông Giúp, mỗi khi sạt lở lại sửa nhà, lại dời nhà
vào trong, cho đến lúc chỉ còn sức dựng một cái chòi tạm bằng cây lá, bạt
nylon.
"Càng lúc sông lấn càng nhanh, càng sâu. Cứ đà này, chỉ
thêm hai lần lở nữa là ở đây hết đất", ông Giúp nói, "nhưng chúng tôi
đã già, không thể đi nơi khác".
(Trích theo bài báo của Bảo Uyên trên https://vnexpress.net)
Viết và chia sẻ bình luận:
Like để cập nhật các bài viết qua facebook. Cảm ơn bạn đã ghé thăm, ủng hộ!
Blogger Comment
Facebook Comment