Nguyên
Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ Thủy lợi),
Nguyên
Cục trưởng Cục Đê điều phòng chống lụt bão (Bộ Nông nghiệp & PTNT)
Hơn
nửa thế kỉ trước đây, ngày 17/9/1959, tại Hội nghị Thủy Lợi toàn miền Bắc, Hồ
Chí Minh đã nói:
“Việt
Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước, có đất và có nước
thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu nước mạnh.
Nước
cũng có thể làm lợi nhưng cũng có thể làm hại, nhiều nước quá thì úng lụt, ít
nước quá thì hạn hán.
Nhiệm
vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hòa với nhau, để nâng cao đời sống
nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội.”
(Trích
lời kêu gọi của Hồ chủ tịch, NXB Sự Thật Hà Nội, 1960, tập 5 tr 261, 262)
Lời
dạy đó được ghi ở tất cả các nơi trang trọng nhất từ TW đến địa phương của
ngành thủy lợi, xem như một lời hiệu triệu để cố gắng trong hành động của mình;
và ngày càng nhận rõ ý nghĩa Minh Triết sâu xa của Người về nước – tài nguyên
vô giá quyết định sự sống, sự phát triển của nhân loại.
Điều
kì lạ là Minh Triết đó đã vượt xa tầm suy nghĩ của thời đại mà mãi đến thập kỉ
90 của thế kỉ trước, thế giới mới ngày càng nhận rõ hơn vai trò vị trí của nước,
các hội nghị nguyên thủ quốc gia về nước năm 1992 tại Riode Janeiro đề ra bốn
nguyên tắc Dublin, năm 2002 ở Johannesburg đặt nước lên hàng đầu trên năm ưu
tiên: Nước, năng lượng, sức khởe, nông nghiệp, và đa dạng sinh học. Bên cạnh đó
các diễn đàn về nước liên tiếp mở ra ở Mara Kech ( Ma-rốc - 1997 ), Hague ( Hà
Lan - 2000 ), Kyoto (Nhật Bản – 2003) với quy mô ngày càng lớn.
Nhân
loại nhận thức rằng những thách thức mà các quốc gia đang phái đối mặt vì sự
phát triển kinh tế xà hội và con người đều liên quan đến nguồn nước. Thiếu nước,
suy thái chất lượng nước, biến đổi khí hậu và môi trường, thể chế quản lí, an
ninh lương thực, chống đói nghèo…là những vấn đề cần có sự quan tâm cấp bách và
hành động cụ thể liên quan đến nước. Ngưười ta cũng nhận ra rằng nước là vấn đề
mang tính toàn cầu nhưng lại không thể xây dựng một kế hoạch chung mà phải dược
triển khai theo từng quốc gia và khu vực.
Minh
Triết Hồ Chí Minh về nước được đặt ra đúng tầm lớn lao quan trọng về nước, các
vấn đề được giải quyết và phương pháp thực hiện trên cơ sở hài hòa bền vững giữa
phát triển và thiên nhiên để đem lại lợi ích cho con người, cho nhân dân, cho sự
công bằng xã hội.
Không
phải sự trùng hợp ngẫu nhiên, ý nghĩa của ngôn từ Tổ quốc và Đất Nước mà đó
chính là cái gốc rễ của hồn Minh Triết Việt thấm đẫm trong tư tưởng của Người.
Vượt
trên tất cả những định nghĩa, xác lập vị trí của nước với những quan niệm hiện
đại mà thế giới đang diễn đạt hôm nay, Hồ Chí Minh đặt nước ở vị trí thiêng
liêng, cội nguồn của sự sống con người, sự tồn vong của mỗi dân tộc : có Đất và
có Nước mới thành Tổ quốc. Cái vị trí tột đỉnh ấy không thể thay thế, không thể
đánh đổi bởi đó là nguồn cội của sự sống, chẳng thế mà các thám hiểm vũ trụ chỉ
mong tìm thấy dấu hiệu của Nước trên bất cứ hành tinh nào thì hi vọng sự sống sẽ
xuất hiện ở đó.
![]() |
Hồ Chí Minh và minh triết về nước |
Người
luôn đặt sự vật trong bàn tay vận động của mỗi con người, của dân tộc: có Đất lại
có Nước thì dân giàu nước mạnh. Nước trở thành nhân tố quyết định sự phát triển
bền vững sống còn của mỗi dân tộc. Ở Người, mối quan hệ giữa thiên nhiên và con
người là sự vận động biện chứng tìm đến sự hòa hợp để phát triển trong thể thống
nhất và bền vững. Đó chính là sự khởi nguồn cho ngày nay chúng ta đang bàn tới,
đang định nghĩa về quản lí tổng hợp tài nguyên nước.
Người
nhìn sâu xa hai thuộc tính đối nghịch của nước: “Nước có thể làm lợi nhưng có
thể làm hại, nhiều nước quá thì úng lụt, ít nước quá thì hạn hán.” Bộ đôi song
sinh thiên tai (lũ lụt, hạn hán) và lợi ích do nước đem lại theo một chu trình
thủy văn, chu trình đó lại thay đổi tích cực hoặc tiêu cực theo tác động của
con người mà đến nay ta càng nhìn rõ ở tác động của biến đổi khí hậu đang diễn
ra có xu thế ngày càng cực đoan, quyết liệt hơn.
Từ
tầm nhìn vị trí thiêng liêng không thể thay thế của nước đến tính hai mặt của
nước để đi đến cái cần thiết nhất, cái quyết định nhất: “Nhiệm vụ của chúng ta
là làm cho đất với nước điều hòa với nhau, để nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng
chủ nghĩa xã hội.” Đến đây thì Minh Triết của Người về nước đạt đến sự hoàn mĩ
tài tình.
Vào
những năm đầu của thế kỉ 21 này, thế giới quy tập một đội ngũ chuyên gia tài ba
để định nghĩa tổng hợp tài nguyên nước, có nghĩa là tìm đến cách tiếp cận sử dụng
nước hiệu quả nhất như sau: “Quản lí tổng hợp tài nguyên nước là một quá trình
đẩy mạnh, phối hợp phát triển và quản lí nguồn nước, đất đai và tài nguyên liên
quan để tối đa hóa lợi ích kinh tế và phúc lợi xã hội một cách công bằng mà
không phương hại đến tính bền vững của các hệ sinh thái thiết yếu.”
Với
Hồ Chí Minh là “làm cho đất với nước điều hòa với nhau” có lẽ bắt nguồn từ triết
lí cân bằng âm dương của phương Đông. Không thể tìm được ý tưởng nào chuẩn xác
hơn, phổ quát hơn, khoa học hơn, bền vững hơn, biện chứng hơn và không ngừng
phát triển để đạt tới mục tiêu nhân văn hơn bằng triết lí “điều hòa”. Bởi đó là
Minh Triết con người biết hòa hợp, khéo léo hòa thuận với tự nhiên để tìm đến
cái tối ưu, cái mục đích đạt tới, biết sự vận động trong phát triển không ngừng,
biết tìm đến sự hợp lí và công bằng.
Lê-nin
khi nói về thủy lợi: “Công tác thủy lợi là cần thiết hơn cả; chính nó sẽ tái tạo
đất nước, sẽ phục hưng đất nước, sẽ chôn vùi quá khứ, sẽ củng cố bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.” (Lê-nin tập 5 NXB Sự Thật, 1960, quyển II, tr 485). Ở
đây ta thấy như có một cái gì đó quyết liệt thiếu sự mềm dẻo với tự nhiên, mối
quan hệ giữa quá khứ với hiện tại mặc dù mục tiêu đều hướng tới con người, chủ
nghĩa xã hội.
Minh
Triết “làm cho đất với nước điều hòa với nhau” để nâng cao đời sống nhân dân và
xây dựng chủ nghĩa xã hội dẫn dắt tư duy và hành động của chúng ta:
Tính
phổ quát của nó thích ứng với từng bước phát triển của xã hội, nhất là trong
giai đoạn hiên nay nhân loại đang phải đối mặt với biến đổi khí hậu toàn cầu, rất
cần một cách tiếp cận hòa hợp thích nghi thay cho những cách nhìn cực đoan,
khiên cưỡng.
Tính
khoa học của nó là sự lựa chọn hiểu biết giữa đất ( Đất và tất cả những gì tồn
tại trên mặt đất) và nước để tìm đến những giải pháp phù hợp, mềm dẻo, thuận
quy luật và chính vì vậy để phát triển bền vững hơn, đặc biệt với hệ sinh thái
rừng đảm bảo cho tầng thấm nước bổ sung nước và từ đó lại tái tạo những lợi ích
mới.
Sự
điều hòa đó không có điểm dừng mà vận động trong sự phát triển không ngừng, mỗi
bước phát triển có bước thích ứng phù hợp ngày càng nâng cao bền vững hơn và
như vậy lợi ích của các nhân tố tồn tại trên mặt đất phải được phối hợp một
cách công bằng và hợp lí hơn.
Mục
tiêu đạt được phải là nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Không giải quyết được nâng cao đời sống của nhân dân thì mọi cái đều trở nên vô
nghĩa.
Lịch
sự tồn tại và phát triển của dân tộc ta là lịch sự phát triển điều hòa giữa đất
và nước. Hệ thống đê điều đồng bằng sông Hồng từ buổi khởi đầu cho đến ngày nay
tồn tại đã một nghìn năm là từng bước tìm sự điều hòa giữa đất và nước trong
tương quan phát triển kinh tế xã hội, ban đầu có lẽ là khoanh vùng nhỏ, lợi dụng
mặt đất cao thấp để có thể sản xuất trong những điều kiện lũ lụt bình thường;
xã hội phát triển, dân số một ngày tăng lên, hệ thống đê phải nối liền rồi độ
cao từng bước nâng lên để có thể sản xuất vững chắc hơn đối với những trận lũ vừa:
vụ chiêm không khê, vụ mùa không úng. Cứ thế nâng dần đến ngày nay không những
chống được lũ lớn mà còn đưa nước sông vào tưới tiêu, đảm bảo ăn chắc hai vụ.
Bài học điều hòa giữa đất và nước trong một nghìn năm qua để tồn tại và phát
triển cho ta hiểu sâu sắc hơn tầm vóc Minh Triết về nước của Hồ Chí Minh.
Ngày
nay vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long đạt tới sản lượng trên 20 triệu tấn vừa đảm
bảo an ninh lương thực, vừa xuất khẩu trên 4 triệu tấn gạo. Mấy ai biết được đó
là thành quả của việc điều hòa giữa đất và nước. Với 1,7 triệu hécta ngập lụt
và chua phèn, gần 1 triệu hécta nhiễm mặn mà theo các chuyên gia nước ngoài phải
có những công trình cải tạo đất đồ sộ trong hàng thập kỉ mới phát triển được.
Thế nhưng chúng ta hiểu được quy luật của nước hiểu được bản chất của đất và của
nước để tìm tới giái pháp thủy lợi tiêu chua, đẩy phèn, xổ phèn, ém phèn bằng một
hệ thống kênh rạch đưa nước vào đồng và tiêu thoát, hệ thống bờ bao ngăn lũ sớm
và kiểm soát lũ, hệ thống cửa van tự động ở vùng mặn đã tạo nên một môi trường
nước điều hòa với đất phèn và mặn tạo cơ sở vững chắc phát triển hai vụ lúa
thâm canh ngay cả ở vùng ngập sâu và vùng mặn khó khăn nhất.
Khi
nào sự điều hòa đó không được vận hành nhuần nhuyễn thì lập tức hậu quả tiêu cực
phải gánh chịu ngay. Mấy năm nay vận hành hệ thống thủy điện đã bộc lộ rõ điều
đó: sông Hồng dẫn đến cạn kiệt khó tin và mấy ai đo đếm được lợi nhuận mà ngành
điện đem lại khi vận hành không phù hợp với sự điều hòa, không đặt mình trong sự
điều hòa chung để so với những biến đổi môi trường sinh thái trên toàn bộ hệ thống
sông Hồng khi mà hệ thống đê điều thủy lợi trị giá hàng chục tỷ đôla đang đứng
trước nguy cơ đổ vỡ, rối loạn và đàn cá mòi không còn ngược dòng sông Hồng
trong mùa sinh sản hàng năm sẽ tác động đến ngư dân trên biển như thế nào? Tình
hình đó cũng đang diễn ra ở miền núi, Tây Nguyên, miền Trung Đông Nam Bộ.
Minh
Triết điều hòa giữa đất và nước để nâng cao đời sống của nhân dân cho chúng ta
sự tỉnh táo để xem xét lại toàn bộ quá trình điều hành quản lí nước nhằm tới sự
công bằng và nâng cao đời sống của nhân dân.
Tôi
cứ suy nghĩ mãi có lẽ tình yêu đất nước (Tổ quốc) đến độ nung nấu khôn nguôi mới
đưa Hồ Chí Minh đến Minh Triết về nước một cách hoàn hảo và biện chứng như vậy.
Ngay từ buổi đầu hoạt động Cách mạng năm 1921 trên tờ La revue Comministe, bài
báo với tiêu đề “Đông Dương” Người đã đề cập đến vấn đề thủy lợi. Gần 25 năm
trên cương vị Chủ tịch nước, Người có 168 sự kiện đích thân chăm lo đến vấn đề
thủy lợi và đê điều, trong đó có 90 bài viết, bài phát biểu. Hơn một tháng sau
ngày đọc tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945, ngày 11/10 Người chủ tọa phiên họp Hội đồng
chính phủ có nội dung kế hoạch và dự trù kinh phí tu sửa đê điều, và những giờ
phút sắp đi xa trên giường bệnh vào một ngày cuối tháng 8 năm 1969, thủ tướng
Phạm Văn Đồng vào thăm, Người nói: “Nước đang lên to đấy, chú Kỳ bảo Bác sơ tán
lên chỗ cao nhưng Bác không đi đâu, Bác ở với dân, các chú đừng để lụt, đừng để
vỡ đê.” (Vũ Kỳ, “Bác đã đi đến nơi nhưng chưa về đến chốn”, NXB Thành phố Hồ
Chí Minh, 1986). Hiểu sâu sắc đất nước mình, yêu thương nhân dân mình, Minh Triết
về nước của Người đạt tới tột đỉnh, phổ quát, khoa học, biện chứng, phát triển
bền vững và nhân văn đến thế.
Cố
bộ trưởng Hà Kế Tấn với phong cách của người thợ và của vị tướng lĩnh, người có
công hàng đầu trong việc kiến tạo nên bộ máy thủy lợi Việt Nam trong suốt thập
kỉ 60 của thế kỉ trước, từ điều tra thăm dò, đánh giá nguồn nước, quy hoạch lưu
vực sông, khảo sát thiết kế xây dựng và quản lí các công trình thủy lợi, thủy
điện và phòng chống thiên tai, nghiên cứu khoa học, đào tạo xuyên suốt từ TW đến
địa phương đủ sức đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế mà thành quả chói
lọi là quy hoạch trị thủy sông Hồng và hệ thống thủy lợi đồng bằng Bắc bộ, từng
bước thực hiện Minh Triết về nước “làm cho đất với nước điều hòa với nhau” để nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nhưng rồi có những sự việc không thể lí giải nổi hoặc không muốn
lí giải. Sang thập niên 70 của thế kỉ trước, tách thủy văn ra khỏi thủy lợi rồi
tiếp tục tách thủy điện tạo nên một khoảng trống cân đối, thế rồi đến những năm
cuối thế kỉ trước, một sự phá vỡ hệ thống tổ chức và nề nếp nghiệp vụ chuyên
sâu của toàn ngành từ TW đến cơ sở khi xem thủy lợi chỉ là đơn thuần cho nông
nghiệp, nên chuyển phần lớn bộ máy và lực lượng thủy lợi sang bộ Nông nghiệp và
chức năng quản lí tài nguyên nước sang bộ Tài nguyên và Môi trường.
Những
biến đổi về dòng chảy và nguồn nước ngầm, dù có nguồn gốc khí hậu nhất là ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu hay yếu kém trong quản lí đất đai, quản lí
nguồn nước đều góp phần nảy sinh hạn hán và lũ lụt ngày càng cực đoan hơn gây
nên những tổn thất khó lường về sinh mạng, về kinh tế xã hội và môi trường. Ô
nhiễm nguồn nước góp phần tạo ra những rủi ro về sức khỏe, tác động tới tiến
trình phát triển kinh tế và hệ sinh thái. Thiếu ổn định, phân tán và biến động
trong tổ chức bộ máy thực hiện cũng làm cho các yếu tố rủi ro về thiên tai gia
tăng, tổ chức thực hiện thiếu nhất quán gây chồng chéo và hiệu quả thấp dẫn đến
những tranh chấp giữa các ngành, các khu vực lợi ích, phá vỡ sự bền vững và
tăng thêm sự bất công giữa các nhóm lợi ích.
Làm
cho đất và nước điều hòa với nhau cũng như sự tiếp cận quản lí tổng hợp tài
nguyên nước của thế giới đều có nghĩa là phát triển thủy lợi trong mọi ngành
kinh tế và xã hội, trong việc nâng cao đời sống nhân dân. Yêu cầu kiến lập lại
bộ Thủy lợi như buổi ban đầu Hồ Chí Minh sáng lập để thích ứng hữu hiệu hơn trước
những biến đổi khí hậu toàn cầu là đòi hỏi tất yếu khách quan. Kỉ niệm 65 năm
ngày truyền thống ngành Thủy lợi Việt Nam (28/8/1945 – 28/8/2010) chúng ta ôn lại
chặng đường dài phấn đấu vừa qua càng thấm sâu Minh Triết về nước của Hồ Chí
Minh luôn dẫn dắt con đường chúng ta đi.
Viết và chia sẻ bình luận:
Like để cập nhật các bài viết qua facebook. Cảm ơn bạn đã ghé thăm, ủng hộ!
Blogger Comment
Facebook Comment