Tôi còn nhớ, từ thuở quàng khăn đỏ cắp sách đến trường, tôi
đã được nghe đến hai tiếng thủy lợi, đã được trực tiếp đi làm thủy lợi.
Quê
tôi, một vùng đồng chiêm bên dòng sông Kẻ Sặt thơ mộng. Dòng sông thì thơ mộng,
vậy mà bao đời rồi cánh đồng vẫn chịu cảnh “chiêm khê mùa thối”. Chúng tôi lớn
lên với ruộng đồng, theo cha anh đi gánh đất, đào mương khi tay còn chưa cầm vững
cái mai, chân chưa kịp bám chắc vào đất! Ôi cái ngày xưa ấy, cái ngày của phong
trào đại thủy nông Bắc Hưng Hải, ở quê tôi sao mà hồ hởi, quyết tâm, sao mà
hăng say đến thế!
Lũ
trẻ con chúng tôi chỉ có khoai luộc, cơm nắm, rau lang chấm muối vừng mà cũng
thi nhau ra công trường Cầu Sộp vác đất, gánh gạch xây cống, đào kênh với các
“cô, chú 202” dưới trời nắng chang chang. Nước về ruộng đồng, reo vui bên từng
gốc lúa, miên man chảy trong giấc mơ tuổi thơ tôi theo cánh cò bay xa…Tôi xa
quê, ra đi trong đoàn quân “những người lính chân đất” mà lòng rộn rã, phơi phới
niềm tin vào công cuộc trị thủy, chinh phục thiên nhiên của ngành thủy lợi nước
nhà. Dấn thân vào con đường “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa” đầy gian nan
và thử thách, tôi càng hiểu hơn giá trị của nước - nguồn tài nguyên quan trọng
nhất của loài người và sinh vật trên trái đất.
"Đất
nước ta có nguồn tài nguyên nước khá phong phú, tổng lượng dòng chảy trung bình
hàng năm của nước ta khoảng 847 tỷ m3 nước (đứng thứ 12 trên thế giới), trong
đó tổng lượng dòng chảy bên ngoài vào là 507 tỷ m3 (chiếm khoảng 60%) và dòng
chảy nội địa là 340 tỷ m3. Tuy nhiên, do phân bố mưa và dòng chảy không đều
theo không gian, thời gian, mùa mua lại trùng vào mùa bão, nên từ xa xưa đất nước
ta đã phải đối mặt với bão lụt, úng hạn". Với tổng lượng dòng chảy năm 847
tỷ m3 nước, được cung cấp bởi 13 hệ thống sông chính, phân bố khá đều từ Bắc
vào Nam, như hệ thống sông: Bằng Giang - Kỳ Cùng, sông Đà, sông Lô, sông Hồng,
sông Thái Bình, sông Mã, sông Cả, Vu Gia - Thu Bồn, sông Sê San, Sê rê Pôk,
sông Ba, Đồng Nai và Cửu Long (Mê Công)... Ấy vậy mà nhiều năm qua, hạn hán vẫn
hoành hành dữ dội, nạn thiếu nước luôn là một thách thức lớn.
Nước
ta với nền chủ yếu là lúa nước, điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt, hạn
hán, lũ lụt xẩy ra thường xuyên, bởi vậy công tác thủy lợi có vị trí vô cùng
quan trọng như lời dạy của Bác Hồ đối với những người làm công tác thủy lợi:
"Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là Đất Nước; có đất
và có nước thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu nước mạnh…Nhiệm
vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hòa với nhau để nâng cao đời sống
nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội".
Trải
qua bao thời kỳ lịch sử, thủy lợi - hai tiếng nghe như khô khan mà thân thương,
bình dị đã gắn bó máu thịt với bà con nông dân, với số phận biết bao con người
mang trên mình “áo bông, quần cộc” trong cuộc chiến với hạn hán, lũ lụt để bảo
vệ, phát triển sản xuất, bảo vệ đời sống nhân dân và duy trì, phát triển xã hội.
Theo năm tháng gian nan, nhiều công trình thủy lợi đã được xây dựng ở khắp mọi
miền của Tổ quốc, để lại những dấu ấn về ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam,
trong quá trình chinh phục thiên nhiên.
Còn
nhớ, năm 1945 cả nước mới có 13 hệ thống thủy nông lớn và vừa, đảm bảo tưới cho
324.900 ha, tiêu 77.000 ha thì đến nay cả nước đã xây dựng được hàng trăm hệ thống
thủy nông lớn và vừa, hơn 500 hồ đập lớn và hàng ngàn công trình thủy lợi nhỏ,
đảm bảo tưới cho gần 4 triệu ha đất nông nghiệp, tiêu cho hơn 1,5 triệu ha. Nhiều
công trình thủy lợi lớn mang tầm quốc tế, đem lại hiệu quả cao, đã mọc lên, đã
vươn lên, sừng sững trên bản đồ hình chữ S như: Hồ Dầu Tiếng, hồ Phú Ninh, Thác
Bà, Kẻ Gỗ, Sông Sào, Núi Cốc, Ayun hạ, Nước Trong, Cửa Đạt… Đặc biệt, ở vùng đồng
bằng sông Hồng - vựa lúa lớn của miền Bắc đó được “thủy lợi hóa” sớm và ở mức
cao. Nhắc đến vùng châu thổ mỡ màu này, người dân nơi đây thường nhắc tới những
cái tên: Bắc Hưng Hải, 6 trạm bơm lớn của Nam Định - Hà Nam như: Cổ Đam, Cốc
Thành, Hữu Bị, Vĩnh Trị, Nhâm Tràng, Như Trác…Những cái tên nghe thật gần gũi,
vời vợi đồng chiêm, gắn với nỗi khổ đau nơi “sống ngâm da, chết ngâm xương” thuở
xa xưa và “thiên đường đồng bằng” bây giờ.
![]() |
Bản tình ca của đất và nước |
Những
năm gần đây, tôi đã từng đi khảo sát thực tế nhiều vùng quanh “rốn nước đồng
chiêm” trên quê hương cụ Nguyễn Khuyến, tuyệt chẳng còn thấy "bóng thuyền
thấp thoáng dờn trên vách” nữa, mà chỉ thấy nhà tầng nhà ngói san sát mọc lên,
vươn cao giữa bát ngát đồng xanh. Tôi cũng đã từng lặn lội, ngang dọc Tây Bắc,
Tây Nguyên đi tìm nguồn nước, đội nắng dầm mưa cùng đồng nghiệp trên công trường
thủy lợi đầy nắng gió, để có được giây phút thật cảm động khi bắt gặp nụ cười rạng
rỡ như hoa ban của cô gái Mường Lũ, hay ánh mắt rực sáng như lửa rừng của già
làng Buôn Đôn trong ngày vui khánh thành công trình thủy lợi. Sung sướng làm
sao, hạnh phúc biết bao khi những người đi xây hồ, đắp đập chúng tôi nhận được
cái bắt tay run run, nghe lời cảm ơn chân tình từ chính những bà con nhân dân
vùng hưởng lợi!
Những
lúc đó, dường như tôi bỗng quên đi bao khó khăn, vất vả ngày thường, lòng thầm
nhớ tới những bậc tiền bối đã có nhiều công lao đóng góp cho ngành Thủy lợi như
các ông: Trần Đăng Khoa, Nguyễn Thanh Bình, Hà Kế Tấn, Nguyễn Văn Cung, Đinh
Gia Khánh; các chị: Vũ Thị Tỵ, Phạm Thị Vách… và biết bao chiến sỹ đã hy sinh
trên mặt trận thủy lợi thầm lặng trong suốt chặng đường qua, trên mọi miền Tổ
quốc để tô đẹp cho hai chữ Thủy lợi. Những lúc đó, tôi cứ thấy lòng mình rưng
rưng. Những hình ảnh của một thời đói nghèo, lam lũ thuở xưa lại hiện về trong
tâm trí tôi. Làm sao có thể quên được những chân ruộng nẻ trắng có thể đút vừa
cả bàn chân trong mùa khô hanh, nhưng lại mênh mông nước, phải đi bằng thuyền
trong mùa mưa. Làm sao có thể quên được những tháng ba ngày tám với bát cơm độn
rau má, khoai lang, bưng lên miệng mà lòng xót xa. Đáng quý mà đáng thương biết
bao những bà mẹ quê nghèo, trong đó có mẹ tôi, với tấm áo nâu sồng lầm lũi ra đồng
sớm hôm, những mong nước về ruộng khoán!
Tất
cả, tất cả đó đi vào quá khứ nhưng lại hiện ra trong bức tranh đẹp của bộ mặt
nông thôn ngày hôm nay mà một phần không nhỏ là nhờ có thủy lợi! Nhờ đảm bảo chủ
động tưới tiêu, năng suất lúa ở nhiều địa phương tăng vọt. Tổng sản lượng lúa của
cả nước tăng lên hàng năm với con số “chóng mặt”. Chỉ tính riêng vựa lúa đồng bằng
sông Cửu Long – nơi điển hình về chua phèn, ngập mặn, những năm gần đây đã đạt
tới sản lượng trên 20 triệu tấn là điều “ngỡ như mơ”. Do có hiệu quả từ thủy lợi
mang lại, chẳng những diện tích, năng suất và sản lượng lúa tăng lên đáng kể mà
cơ cấu trong nông nghiệp cũng được chuyển đổi mạnh, mang lại hiệu quả lớn. Những
trang trại, hộ gia đình có thu nhập bình quân từ 200 triệu đến 450 triệu đồng/héc-ta/
năm đã xuất hiện ngày một nhiều ở vùng châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long hay ở
cả vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên...Thủy lợi đó thực sự trở thành một ngành kỹ
thuật – kinh tế quan trọng, giúp phần to lớn vào việc phát triển kinh tế, bảo vệ
và cải tạo môi trường, phát triển văn hóa xã hội…đúng như Lê Nin đã từng nói:
“Công tác thủy lợi là cần thiết hơn cả, chính nó sẽ tái tạo đất nước, sẽ chôn
vùi quá khứ, sẽ củng cố bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Thực
tế đã chứng minh điều đó. Thủy lợi Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài đầy
gian nan thử thách và đã giành được những thành tựu lớn lao, đáng được ghi nhận;
nhưng cũng đang phải đối mặt với những thách thức ghê gớm trước tình hình biến
đổi khí hậu ngày càng trở nên trầm trọng, đòi hỏi chúng ta, mà trước hết là những
người trực tiếp làm công tác thủy lợi, phải có nếp nghĩ mới và cách làm mới, để
cho Thủy lợi mãi mãi thân thương, rất đỗi tự hào! Để cho bản tình ca của đất và
nước mãi ngân vang!
Theo: nongnghiep.vn
Hải Dương, vụ lúa chiêm 2010
Viết và chia sẻ bình luận:
Like để cập nhật các bài viết qua facebook. Cảm ơn bạn đã ghé thăm, ủng hộ!
Hải Dương, vụ lúa chiêm 2010
Blogger Comment
Facebook Comment