Cấu
tạo chung của Khối nhà A theo phương thẳng đứng gồm: Tầng trệt (tầng ngầm) là tầng
kỹ thuật có độ cao tối thiểu; tầng 1 (ngang cốt mặt đất) gồm có tiền sảnh,
phòng thường trực) và các phòng dành làm văn phòng; từ tầng thứ 3 tới tầng 23
là các tầng để ở; tầng 24 là tầng kỹ thuật (thông gió, phòng đặt động cơ của
các thang máy).
Tầng
điển hình của khối nhà A gồm có 2 đơn nguyên, được nối với nhau bằng một nút
các hệ thống hạ tầng thông tin liên lạc theo phương thẳng đứng. Trên mỗi tầng
có 9 căn hộ. Tất cả các căn hộ đều có các hướng đông, tây hoặc nam. Phòng bếp rộng
trên 10 m2. Kết cấu khung tạo ra khả năng liên kết hoặc bố trí lại các căn hộ
trong nhà. Trong phương án thiết kế cơ bản thì số lượng các căn hộ 1 phòng, 2 phòng
và 3 phòng trên mỗi tầng là như nhau- đều bằng 3. Trong tất cả các căn hộ đã
xem xét thiết kế các lô gia lồng kính (là cửa thoát hiểm thứ hai). Tổng diện
tích các căn hộ trên mỗi tầng bằng 764,8 m2, có 2 cầu thang thoát hiểm. Hệ thống
thông tin liên lạc thẳng đứng được bảo đảm bằng 2 thang máy chở khách, có sức
nâng 400 kg và 2 thang máy nâng vật nặng có sức nâng 630 kg.
Khối
nhà B gồm có 5 đơn nguyên thông chiều rộng, bố trí dọc theo trục chữ S và có số
tầng khác nhau(tương ứng bằng 19, 14, 9, 9 và 10 tầng).
Tầng
ngầm được chia làm 2 phần theo chiều dọc: bên ngoài là phần kỹ thuật, bên trong
là phần gara.
Trên
tầng 1 là các cửa vào nhà ở và các chỗ đỗ xe ô tô, cũng như đi xuống tầng ngầm
để xe ô tô.
Tầng
thứ 2, cũng giống như trong khối nhà A, là tầng kỹ thuật, có các cầu thang
thoát hiểm ra mái của ga ra và ra sân. Ngoài ra, chúng còn bảo đảm sự liên lạc
giữa tiền sảnh với cầu thang chính và sân.
Khối
nhà C cấu tạo gồm 3 cấp: các tầng dưới ngầm, trên mặt đất và sân trên mái nhà.
Tầng
thấp nhất toàn bộ là ga ra và các phòng kỹ thuật, tầng trên cùng ngoài các chỗ
đỗ xe và các phòng kỹ thuật còn có một số cửa hàng với tổng diện tích bằng 1083
m2.
Ga
ra gồm có 5 ngăn chứa được 66, 69 và 58 xe ở tầng ngầm và 43, 58 xe ở tầng trên
cùng. Diện tích mỗi ngăn nhỏ hơn 3000 m2.
Dưới
đây là các quá trình thi công xây dựng Tổ hợp nhà ở này:
1.
Đã tiến hành khảo sát địa chất công trình vị trí xây dựng tổ hợp nhà một cách
thận trọng.
Mặt
cắt địa chất nền của công trình thiết kế được nghiên cứu khảo sát tới độ sâu 25
m. Đất ở khu vực đặt móng và hệ thống thông tin liên lạc có hoạt tính ăn mòn yếu
và trung bình đối với thép, hoạt tính ăn mòn yếu và trung bình đối với bê tông
mác W4 theo độ chống thấm nước. Dựa trên quan điểm phát triển các quá trình địa
chất(tạo cactơ-sufozion), thì địa bàn xây dựng tổ hợp nhà này là không nguy hiểm.
2.
Nghiên cứu lựa chọn các giải pháp kết cấu
Đã
sử dụng sơ đồ khung để tính toán kết cấu của nhà: Khung liên kết không gian có
các vách(điaphragma) cứng. Độ bền (cường độ) và độ ổn định của nhà được bảo đảm
bằng sự làm việc kết hợp của các cột, sàn và các vách cứng thẳng đứng. Các vách
cứng là các tường lồng cầu thang, là các tường giữa các căn hộ và các tường lồng
thang máy. Bước cột của khung nhà theo phương dọc và ngang rộng từ 3 đến 5,6 m.
Các
kết cấu móng được chọn dựa trên các kết quả khảo sát địa chất công trình và so
sánh các phương án khác nhau, đã chọn kết cấu móng cọc bê tông cốt thép cho khối
nhà A với tải trọng tính toán trên mỗi cọc không lớn hơn 70 tấn và chọn các tấm
bê tông cốt thép liền khối cho khối nhà B và C.
Các
cột của khung và các vách cứng truyền tải trọng trực tiếp lên các đài cột (khối
nhà A) hay vào các tường tầng ngầm(khối nhà B). Đối với các cột, tường, sàn tầng
ngầm, đã sử dụng bê tông nhóm B25.
Các
tường ngoài (cao hơn tầng ngầm) có nhiều lớp chịu tải bản thân được đỡ trên các
tấm sàn theo mỗi tầng. Độ kháng nhiệt của kết cấu tường (nhiệt trở) không nhỏ
hơn R=3,14 m2. oC/W. Lớp ngoài tường được ốp gạch, là lớp bảo vệ chống tác động
của môi trường khí quyển. Lớp giữa là lớp cách nhiệt làm bằng các khối (blốc)
bê tông bọt dày 340 mm, có dung trọng 400 kg/m3, có hệ số truyền nhiệt bằng
0,11 W/m2.oC. Tường bằng gạch liên kết với các khối bê tông bọt bằng các mạch mềm
từ lưới mạ kẽm 5 x 5. Lớp bên trong bằng vữa xi măng cát dày 30 mm Tại các vị
trí giao nhau giữa các tường ngoài và cột của bộ khung chịu lực và các sàn, người
ta đặt các tấm cách nhiệt cứng.
Các
cột cao 3,3 m có tiết diện 200 x 700 mm, đôi khi là 200 x 400 mm, cho phép đưa
chúng vào hệ thống tường và vách ngăn. Mác bê tông cột bằng B25. Trong tòa nhà
tháp, tiết diện các cột tầng ngầm, tầng 1, tầng 2, tầng 3 bằng 300 x 900 mm.
Tại
các vị trí chuyển tiếp từ vùng nhiệt độ dương xung quanh các cột của khung được
bố trí cách nhiệt bằng tấm bọt xốp lên tới độ cao của tầng liền kề.
Sàn
trong nhà bằng bê tông cốt thép liền khối(không có rầm) dày 180 mm. Mác bê tông
sàn bằng B22,5. Theo chu vi tường ngoài có lắp các tấm cách nhiệt cứng.
Mái
nhà phẳng có tầng áp mái. Hệ thống thoát nước bố trí bên trong nhà. Trên mái có
lớp cách nhiệt bằng tấm chất dẻo bọt URSA. Cách nước được làm bằng 3 lớp
“filizola”.
Kết
cấu của nền dày 6 cm được áp dụng đối với các tầng cao hơn tầng 1. Độ dày của nền
tầng 1 bằng 19 cm. Độ cách âm của các nền được đảm bảo bằng một lớp vật liệu
cách âm bằng “Etafoam” dày 5-10 mm.
Đã
đặc biệt chú ý tới các giải pháp tiết kiệm năng lượng. Nhiệt trở của lớp cách
nhiệt cho các ô cửa sổ lên tới RoTP ≥ 0,56m2.oC/W.
Các
lồng thang máy, tường của lồng cầu thang và các mảng cứng(điaphragma) thẳng đứng
được làm bằng bê tông cốt thép đổ liền khối, mác bê tông bằng B22,5, thi công bằng
ván khuôn leo.
Đối
với ga ra ô tô ngầm thì kết cấu chịu lực thẳng đứng chủ yếu là các tường bê
tông cốt thép đổ liền khối dày 20 cm. Các tường này cũng đảm bảo độ cứng và độ ổn
định cho toàn bộ tòa nhà ga ra. Tại các vị trí tiếp giáp giữa ga ra ngầm với
tòa nhà ở và tại đoạn cuối bên trong ga ra có bố trí các trụ đỡ bằng cột bê
tông cốt thép liền khối tiết diện 40 x 40 cm. Chiều cao của tầng bằng 2,6 m. Bước
tường chịu lực bằng 3 m. Đối với tường và cột sử dụng bê tông mác B22,5.
Sàn
của ga ra làm bằng bê tông cốt thép liền khối có các rầm thành phía dưới, bước
rầm bằng 6,6 m.
Tính
đến vị trí của mức nước ngầm khi xây dựng tất các các phần thấp dưới mặt đất,
đã sử dụng vật liệu cách nước dạng keo, đối với các móng nhà sử dụng bê tông
mác W6 theo độ chống thấm nước.
Xung
quanh tổ hợp nhà đã xây dựng một hệ thống thoát nước vòng quanh chân tường nhà,
ở phía dưới khu vực ga ra, nước được thoát ra hệ thống thoát nước mưa của thành
phố.
Để
đảm bảo chất lượng thiết kế thì tất cả các quá trình công nghệ được thực hiện
theo các yêu cầu thiết kế công tác thi công. Dưới đây là các quá trình công nghệ
chính ảnh hưởng chủ yếu đến chất lượng công tác chu trình 0, tới sự gìn giữ các
ngôi nhà bên cạnh và tới các biến dạng không đều của móng có thể xảy ra của các
công trình được xây dựng và các công trình hiện có.
Đặc
biệt chú ý tới chất lượng thi công công tác đất. Đào các hố móng tiến hành bằng
các máy đào đất có dung tích gầu 1,2 m3 (công ty Hitachi), đất được vận chuyển
ra khỏi công trường để sử dụng cho việc san lấp sau này.
Công
tác đóng cọc được thực hiện sau khi thử nghiệm tĩnh tải và hoạt tải đối với các
cọc đóng bằng búa điezen C-330.
Đã
tiến hành những ngiên cứu sự ảnh hưởng của dao động đất khi đóng các cọc bê
tông cốt thép tới ngôi nhà 5 tầng xây gạch ở bên cạnh. Đã sử dụng trạm đo chấn
động ít kênh di động để giải quyết các bài toán chấn động công trình và quy hoạch
chấn động theo khu vực nhỏ.
Các
số đo được xác định bằng các máy đo chấn động CM-3KB (có 3 bộ cảm biến tại mỗi
điểm- 1 đặt thẳng đứng và 2 đặt nằm ngang) và một cảm biến 3 bộ phận KMB, trong
đó sử dụng các linh kiện nhạy cảm từ các máy đo chấn động CB-5, nhưng 3 bộ phận
được lắp đặt trong cùng một kết cấu.
Theo
phương pháp thử ghi vi chấn động của đất ở gần điểm đóng cọc, đã ghi được các
dao động ở khu vực “yên tĩnh” và khu vực “đóng cọc” với sự trợ giúp của các thiết
bị CM-3KB và KMB. Phương của các trục được quy định là X- phương nằm ngang,
trên điểm nguồn; Y-phương nằm ngang, điểm giao nhau và Z-phương thẳng đứng. Các
cuộc đo được tiến hành trên mặt đất, trên tầng 1 và tầng 8.
Để
đánh giá được sự tác động va đập do đóng cọc theo chiều cao của nhà, đã so sánh
các quang phổ ghi được trên mặt đất, trên tầng 1 và tầng 8 theo cùng một phương
thẳng đứng là lồng thang máy. Phân tích các quang phổ cho thấy:
-
Các mức dao động, đặc trưng cho đơn vị va đập-dải rộng lớn nhất với tần số ở
tâm bằng 10 hz, khi chuyển tiếp tín hiệu từ đất lên nhà có sự thay đổi như sau:
Trên tầng 1 các mức giảm chừng 3 lần (theo công suất) lên tất cả các bộ phận so
với các giá trị này trên mặt đất; Trên tầng 8, các thành phần nằm ngang cũng giống
như trên tầng 1, còn thành phần thẳng đứng thì tăng lên khoảng gấp 2 lần so với
trên mặt đất và 5 lần so với tầng 1.
-
Theo tần số có các điểm cực đại thấp tần liên quan đến nhịp độ đập búa, không
đi qua nhà trừ tần số lớn nhất(pic) bằng 2 hz, xuất hiện ở dạng kích thích các
dao động riêng của nhà.
-
Các tác động va đập trên tầng 1, trên thực tế không kích động những dao động
riêng, nhưng chúng lại xuất hiện trên tầng 8.
Những
nghiên cứu khảo sát chứng tỏ rằng, tại tầng trên cùng của nhà tác động chủ yếu
do các va đập khi đóng cọc gây ra xuất hiện trên các tần số đặc trựng cho va đập,
trong khi đó diễn ra sự kích thích các dao động trên tần số riêng của nhà.
Đã
tiến hành đo tại các điểm tác động có khả năng lớn nhất. Sự kích thích dao động
trong nhà trên các tần số tương đối cao (gần 10 hz) có thể dẫn đến các hiện tượng
cộng hưởng đối với các chi tiết kết cấu riêng của nhà, đặc biệt đối với các
công-xon. So sánh các số liệu thu được trên ban-công và bên trong tầng 8 của
nhà, thấy sự khác nhau chủ yếu là ở lực dao động trên tần số 20 hz trên
ban-công.
Các
số liệu thú vị thu được khi nghiên cứu sự phân bố tác động theo mặt bằng của
nhà. Những đo đạc được tiến hành tại các điểm khác nhau trên tầng 1. Đã xác định
được rằng trên các điểm khác nhau của mặt bằng dao động của nhà, gây ra bởi các
tác động đóng cọc, trên thực tế là như nhau về hình dạng và cấp quang phổ. Những
khác nhau lớn nhất xuất hiện trong bộ phận ghi các dao động ngang khối nhà (hướng
tới điểm phát tín hiệu).
So
sánh các số liệu đo các tác động rung đối với ngôi nhà hiện có tại các vị trí
khác nhau của nhà theo chiều cao, trên mặt bằng ở độ xa khác nhau so với vị trí
đóng cọc, đã cho phép xác định được như sau:
-
Các tác động khi đóng cọc tạo ra một trường dao động trong nhà, gồm có phần
xung và kích thích dao động trên các tần số riêng của nhà. Các dao động xung là
thành phần chủ yếu được kích thích trên các tần số riêng đối với bậc yếu hơn.
Đã xác định được rằng biên độ dao động khác nhau theo giải pháp khối không gian
và kết cấu, những khác nhau lớn nhất quan sát thấy theo chiều cao và trên các
điểm tập trung ứng suất.
-
Trên tầng 1, quan sát thấy sự yếu dần của dao động (theo vận tốc gần gấp đôi)
so với đất, còn trên tầng cao nhất của nhà thì các tác động va đập được đặc
trưng bằng sự tăng vận tốc chừng gấp đôi so với đất, khác so với tầng trên cùng
và tầng dưới cùng- gấp khoảng 4-5 lần.
-
Sự phân tích tổng hợp các kết quả thu được cho thấy rằng, việc thi công đóng cọc
sẽ không gây ra lún nền đất và biến dạng quá mức trong các kết cấu của nhà. Đã
quyết định tiếp tục công việc đóng cọc. Bằng phương pháp này đã đóng thành công
toàn bộ 560 cọc.
-
Khi xây dựng nhà, việc đổ bê tông tất cả các dạng kết cấu được tiến hành với việc
sử dụng các ô tô trộn bê tông(ABC-7), các máy bơm bê tông cố định của
Putzmeister BSA-1407-D và hệ ván khuôn mô đun của Công ty DALLI của Đức.
Do
một phần công việc phải tiến hành vào mùa đông, nên đã áp dụng phương pháp hiệu
quả sấy nóng bê tông trong kết cấu. Phương pháp sấy bằng điện đảm bảo chất lượng
hơn cả. Sấy nóng bê tông đến khi đạt được 70% cường độ thiết kế: Bê tông sấy
nóng tới 40 độ trong thời gian 12-16 giờ, sau đó giữ ở nhiệt độ này 36-48 giờ
và giảm nhiệt độ trong 12-24 giờ. Đã nghiên cứu áp dụng phương pháp đặc biệt có
tính đến những đặc điểm kết cấu chịu lực của ngôi nhà, các phương pháp và điều
kiện thi công bê tông và kiểu ván khuôn được dùng. Xác định cường độ bê tông ở
các thời điểm bảo dưỡng khác nhau. Kiểm tra cường độ bê tông bằng phương pháp
không phá hoại(NDT). Cho tới khi hoàn thành công việc xây dựng, đã không phát
hiện trường hợp nào bê tông cường độ thấp. Bê tông cho thêm phụ gia C-3 (5% khối
lượng xi măng) và phụ gia chống đóng băng nitrat natri (2% khối lượng xi măng).
Đã
ứng dụng thành công phương pháp hiệu quả sử dụng các polyme hòa tan trong nước
để tránh mất nước cho bê tông vào mùa hè.
Đã
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng và cường độ bê tông khi chuẩn bị
hỗn hợp bê tông, trong giai đoạn đổ, bảo dưỡng và tháo dỡ khuôn. Đã áp dụng nhiều
biện pháp tổ chức thi công bê tông hữu hiệu, nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công và
đảm bảo chất lượng theo yêu cầu thiết kế tổ hợp nhà.
Đinh
Bá Lô (Nguồn tin: T/C “Xây dựng nhà ở”
Nga N12/2005)
Theo
IBuild
Viết và chia sẻ bình luận:
Like để cập nhật các bài viết qua facebook. Cảm ơn bạn đã ghé thăm, ủng hộ!
Blogger Comment
Facebook Comment