Vài ý kiến về thủy điện ở nước ta
Một số nhà máy thủy điện tuy được
xây dựng từ những năm 1960 của thế kỷ trước, song thủy điện ở nước ta phát triển
chủ yếu trong gần 3 thập kỷ trở lại đây và đã góp phần quan trọng vào sự phát
triển kinh tế xã hội của nước nhà. Tuy nhiên gần đây có nhiều ý kiến phê phán
thậm chí phủ định vai trò của thủy điện nhân một số sự cố mất an toàn đập, một
số tác động tiêu cực đối với dân sinh và môi trường,…Vì vậy việc trao đổi ý kiến
để có những nhìn nhận khách quan, đúng đắn và công bằng về thủy điện ở nước ta
là cần thiết.
Nguồn năng lượng sạch, tái tạo dồi
dào và vận hành thuận lợi.
Hiện nay trên thế giới, không nơi
nào có nguồn thủy năng mà con người không tận dụng vì đây là nguồn năng lượng dồi
dào và nếu chậm khai thác ngày nào thì lãng phí ngày đó. Trong khi sản lượng điện
từ than, dầu mỏ…, đang dần cạn kiệt thì thủy điện được ưu tiên phát triển số 1.
Thủy điện hiện nay chiếm từ 15-20% tổng sản lượng điện của thế giới và chiếm tới
95% tổng sản lượng năng lượng tái tạo.
Đặc biệt, sau vụ động đất sóng thần
ở Nhật Bản vừa qua, chương trình điện hạt nhân của các quốc gia bị hủy, hoặc bị
dừng và đang phải xem xét lại. Vì vậy sự thiếu hụt năng lượng trong tương lai
trông đợi nhiều vào phát triển thủy điện.
Thủy điện là nguồn năng lượng được
coi là sạch, hầu như không tạo ra các chất khí làm ảnh hưởng đến môi trường khí
quyển. Những nghiên cứu gần đây cho biết
rằng khí methal chỉ có ở các lòng hồ chứa đã chưa được dọn sạch trước khi tích
nước hoặc rất cá biệt có những liên hệ tiềm ẩn với nguồn khí này dưới mặt đất.
Thủy điện được vận hành dễ dàng để
chủ động đáp ứng yêu cầu điều tiết sản lượng điện tiêu thụ bằng động tác tương
đối đơn giản đóng hay mở van nước vào tuabin vì vậy nó thường được sử dụng
trong những giờ cao điểm tiêu thụ điện. Khi các nguồn điện khác (nhiệt điện, điện
hạt nhân, điện gió, điện sóng biển,..) vẫn phải phát điện với công suất lớn
trong giờ thấp điểm, người ta dùng hệ thống thủy điện - bơm tích năng. Hệ thống
này gồm 2 hổ chứa và loại tuabin lưỡng tính, vừa có tính năng phát điện và khi
cần có thể vận hành như máy bơm. Trong giờ cao điểm, nước từ hồ trên cao chảy
qua tuabin phát điện xuống hồ dưới. Trong giờ thấp điểm, tuabin lưỡng tính bơm
nước từ hồ dưới lên hồ trên để tiêu thụ các nguồn điện dư thừa khác. Hiện có 64
nhà máy thủy điện - bơm tích năng có công suất từ 1000MW trở lên, lớn nhất là
các nhà máy Bath County (Mỹ) 2772MW và Kanagawa (Nhật Bản) 2700MW.
Thủy điện được vận hành hợp lý, kết
hợp hài hòa với giảm nhẹ lũ, cấp nước, ... sẽ mang lại hiệu quả cao do sử dụng
tổng hợp nguồn nước. Sự quản lý điều hành thủy điện trên nguyên tắc sử dụng tổng
hợp và bền vững nguồn nước hiệu quả. Áo (60%), Thụy Sĩ (57%),…
Nhiều nước phát triển như Na Uy,
Thụy Sĩ, Italia, Pháp, Áo, đã khai thác
hết nguồn thủy năng trong khi một số nước khác Hoa Kỳ, Nhật Bản, Tây Ban
Nha,... và nhất là Canada..., tuy đã có sản lượng thủy điện lớn song do nguồn
thủy năng còn dồi dào nên vẫn tiếp tục đẩy mạnh xây dựng thủy điện. Người ta
nâng cấp các thủy điện đã có bằng cách tăng thêm chiều cao đập và làm thêm các
thủy điện vừa và nhỏ.
Các nước đang phát triển ở châu Á
như Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ,… và ở Nam Mỹ như Brazil, Argentina,
Venezuela,... đã và đang đạt những kỷ lục thế giới về sản lượng cũng như về qui
mô các nhà máy thủy điện. Gần đây Ngân hàng Thế giới (WB) đã điều chỉnh lại chủ
trương về thủy điện, tăng cường hỗ trợ phát triển thủy điện nhất là đối với các
nước đang phát triển.
Có thể nêu những nước có sản lượng
thủy điện chiếm tỷ lệ lớn trong tổng sản lượng
điện như Na Uy (gần 99%), Iceland
(87%), Brazil (86%), New Zealand (75%), Venezuela (70%), Canada (62%),
Tác động của thủy điện đối với
môi trường và dân sinh.
Hoạt động phát triển của con người
ít nhiều đều làm thay đổi môi trường. Thủy điện không là ngoại lệ. Song cũng cần
đánh giá đúng và khách quan. Không phải sự
thay đổi nào về môi trường cũng
là xấu, nhiều sự thay đổi đem lại kết quả tốt. Suy cho cùng, nhân loại
cũng không thể phát triển nếu hoàn toàn giữ nguyên môi trường cũ.
Tác động tiêu cực do thủy điện dễ
xảy ra đối với môi trường trước hết là sự thay đổi về dòng chảy. Lưu lượng dòng
chảy ở hạ du không còn tự nhiên nữa mà mang tính “nhân tạo” tùy thuộc vào sự vận
hành nhà máy thủy điện. Trường hợp thủy điện chuyển nước sang lưu vực khác hoặc
chuyển nước cách đoạn dưới hạ du dễ làm cho toàn bộ hoặc một phần hạ du thiếu nước.
Các hồ chứa làm ngập những diện
tích rộng, trong đó có những diện tích canh tác và khu dân cư, làm xáo trộn cuộc
sống của người dân trong vùng. Đây cũng là nguyên nhân gây ra sự phản đối của
người dân địa phương khi xây dựng một số đập. Điển hình là trường hợp đập Belo
Monte (Brazil) tạo công suất thủy điện 11,2GW sau gần 30 năm chuẩn bị và chờ đợi,
đến năm 2010 thì khởi công, nhưng chỉ
sau mấy tháng thi công lại phải ngừng vì bị dân địa phương phản đối. Ở Mỹ, một vài đập nhỏ và cũ bị dỡ bỏ do thiếu an
toàn và không cần sử dụng nữa.
An toàn đập là điều lo ngại và là
chủ đề rất nhạy cảm được quan tâm đặc biệt trên thế giới vì nếu đập bị vỡ thì cả
vùng rộng lớn ở hạ du phải chịu thảm họa. Người ta còn nhớ những vụ vỡ đập thủy
điện như: đập Bản Kiều (Trung Quốc ) năm 1975 đã gây ra thảm họa kinh hoàng với
175.000 người thiệt mạng và hơn 11 triệu người khác mất nhà cửa. Đập Gleno
(Italia) vỡ vào năm1923 làm 356 người thiệt mạng. Đập Kelly Barnes ( Mỹ) vỡ năm
1977 làm 39 người thiệt mạng và thiệt hại về tài sản lên đến 3.8 triệu USD. Đập
hồ Lawn (Mỹ) bị sập vào năm 1982 với lượng nước tràn ra lên đến 830.000 m3 làm
thiệt hại kinh tế lên đến 31 triệu USD.
Thủy điện ở Việt Nam
Một vài nhà máy thủy điện vừa và
nhỏ được xây dựng ở Việt Nam từ những năm 1960 như Đa Nhim (160MW), Thác Bà
(108MW),..Thủy điện đã phát triển mạnh trong vài thập kỷ trở lại đây, cả thủy
điện lớn, vừa và nhỏ. Những nhà máy thủy điện lớn nằm ở Tây Bắc, dọc Trường
Sơn, Tây Nguyên… Thủy điện đã đóng góp đặc biệt quan trọng vào sự phát triển của
đất nước. Thủy điện Hòa Bình (1920MW), Trị An (400MW), Yaly (720MW),... đã góp
phần giữ an ninh năng lượng, giúp chúng ta vượt qua giai đoạn đặc biệt khó khăn
về kinh tế trong các thập niên 80 – 90 của thế kỷ trước. Mới khánh thành Thủy
điện Sơn La (2400MW) với đập bêtông đầm lăn cao 138m thuộc loại lớn nhất ở Đông
Nam Á . Thủy điện cung cấp khoảng 35% tổng sản lượng điện đã và đang góp phần
không nhỏ vào sự phát triển chung của đất nước.
Vậy tại sao gần đây có những ý kiến
phê phán gay gắt, thậm chí đòi phá bỏ các đập thủy điện? Đó là do chúng ta đã
phát triển quá ồ ạt thủy điện vừa và nhỏ
mà quản lý lại quá yếu kém gây ra nhiều sự cố, nhiều hậu quả xấu cho môi sinh
và cho đời sống nhân dân trong vùng
Theo số liệu mới công bố, nước ta
có khoảng 7000 đập, phần lớn là đập nhỏ được xây dựng gần đây. Chỉ mới nghe con số này đã thấy ‘choáng’! Các
nhà đầu tư đổ xô làm thủy điện nhằm thu
lợi nhuận cao. Cơ quan quản lý cũng chạy theo, bất chấp những qui định về
quản lý và kỹ thuật.
Trước hết là khâu qui hoạch. Qui
hoạch nếu có thì cũng được lập và thông qua rất nhanh. Chủ đầu tư chỉ cốt lợi
ích phát điện. Cơ quan duyệt qui hoạch không hiểu biết gì nhiều, không đặt vấn
đề sử dụng tổng hợp nguồn nước trong lưu vực.
Tiếp theo là khâu lập dự án và
thiết kế kỹ thuật cũng trong tình trạng như vậy. Không giống như nhiều loại kết
cấu hạ tầng khác, đập có yêu cầu an toàn rất đặc biệt nên người thiết kế phải
có kiến thức và kinh nghiệm. Không phải cứ có bằng kỹ sư là ai cũng có thể thiết
kế đập. Không phải cứ có bằng kỹ sư thủy lợi là ai cũng có thể tự phong mình là
chuyên gia thiết kế đập. Hiện không có qui định nào về tiêu chuẩn hành nghề tư
vấn thiết kế xây dựng đập. Một số kỹ sư cũng chạy theo công việc, chủ quan về kỹ
thuật. Là chủ đầu tư thì không ai muốn công trình của mình bị đổ vỡ nhưng do nhận
thức có hạn và quá chú trọng đến lợi nhuận nên họ đã chọn những người thiết kế
kém chất lượng, chủ quan, thiếu trách nhiệm.
Rồi đến khâu thi công đập với
thói làm ẩu do kém hiểu biết và vô trách nhiệm, bớt xén nguyên liệu, không tuân
thủ các qui trình đảm bảo chất lượng và những tiêu cực khác. Sự cố nước chảy xối
xả qua thân đập Sông Tranh 2 có nguyên nhân từ chất lượng xây dựng đập. Chủ đầu
tư đã sửa chữa và đánh giá chất lượng đập tốt, song vẫn thiếu thuyết phục. Sự cố
vỡ các đập Dak Krong 3, Dak Mek, Ia Krel 2,…cho thấy chất lượng đập rất kém, nhà thầu không biết làm và
làm bừa, thêm vào đó là những phát biểu phi kỹ thuật của chủ đầu tư.
Khâu quản lý vận hành cũng từng
gây ra sự cố và những hệ quả phức tạp về môi trường và dân sinh. Sự cố đập Hố
Hô là điển hình về vô trách nhiệm trong quản lý vận hành khi không có ai trực tại
đập lúc lũ về, cửa tràn bị khóa, nước dâng cao tràn qua đập phá hủy nhiều hạng
mục công trình, nguy hại cho hạ du. Vận hành hồ thủy điện phải theo Qui trình
được nghiên cứu nghiêm túc dựa trên nguyên tắc sử dụng tổng hợp nguồn nước
trong lưu vực. Việc thủy điện gây cạn kiệt nghiêm trọng những đoạn sông ở hạ du
chứng tỏ vận hành sai qui trình hoặc qui trình còn rất thiếu sót. Thủy điện Dak
Mi 4 chuyển nước từ sông Vu Gia về sông Thu Bồn, thủy điện An Khê – Kanak chuyển nước từ sông
Ba về sông Kôn đã gây tranh chấp, khó khăn cho hạ du, nhất là trong mùa khô vừa
qua. Qui trình vận hành không tốt hay không có cũng đã gây thiệt hại và tranh
cãi trong mùa lũ khi cho rằng thủy điện đã làm tăng lũ ở hạ du như trường hợp
thủy điện A Vương. Nếu quan trắc liên tục mức nước hồ thì có thể kết luận ngay
về "công" và "tội" của thủy điện trong lũ: mức nước hồ sau lũ dâng cao hơn so với trước
lũ thì hồ đã làm giảm nhẹ lũ cho hạ du (tức là có "công") và ngược lại.
Về ý kiến cho rằng thủy điện gây
phá rừng. Thực ra công trình nào ở vùng rừng núi cũng đều gây tổn hại nhất định
đến diện tích rừng. Ở công trình thủy điện, một khoảnh rừng được thay thế bằng
hồ nước. Trên thế giới, nhất là tại các nước phát triển, những hồ nước bên cạnh
đập tạo nên những thắng cảnh hấp dẫn đối với du lịch, nghỉ dưỡng. Một số công
trình thủy điện ở nước ta có hiện tượng phá thêm rừng khi thi công. Để xảy ra
tình trạng "té nước theo mưa" như vậy là do quá buông lỏng quản lý rừng.
Việc đền bù, tái định cư người
dân vùng lòng hồ tuy được quan tâm và giải quyết tốt hơn song vẫn nhiều bất cập.
An toàn đập tuy hết sức quan trọng
song được nhận thức không đầy đủ. Việc, vì thế quản lý đập, quản lý an toàn đập
là một lĩnh vực chuyên môn rất hẹp chịu trách nhiệm về việc này phải là người
được đào tạo, huấn luyện, cẩn thận. Ở các cơ quan quản lý nhà nước, các công ty
tư vấn được giao giám sát an toàn đập rất thiếu những người như vậy. Phần lớn
sau khi xây dựng xong, chủ đầu tư đều chỉ chú ý lo phát điện và coi nhẹ quản lý an toàn đập. Các thiết bị
quan trắc diễn biến chất lượng đập nếu có cũng chỉ để không. Các văn bản pháp
lý về an toàn đập còn thiếu, còn nhiều ‘lỗ hổng’, còn khoán trắng cho chủ đầu
tư. Chính phủ đã ban hành Nghị định 72/2007/NĐ-CP ngày 7/5/2007 về quản lý an toàn đập nhưng
khi áp dụng còn lúng túng. Các chuyên gia trong Hội Đập lớn và Phát triển nguồn
nước Việt Nam đã ấn hành cuốn "Sổ tay về an toàn đập" song đây chỉ là
văn bản có tính tham khảo.
Đấy là tình trạng phổ biến ở các
thủy điện vừa và nhỏ. Đáng mừng là một số thủy điện lớn được xây dựng và quản
lý khá nghiêm túc, không để xảy ra sự cố nào đáng tiếc. Khi xây dựng các thủy
điện lớn, chúng ta tập trung những chuyên gia có kinh nghiệm, học hỏi và áp dụng
những công nghệ tiên tiến trong các khâu thiết kế, thi công và quản lý. Thủy điện
Hòa Bình được quan trắc thường xuyên và đánh giá đều đặn hàng năm. Qui trình vận
hành hồ Hòa Bình trong mùa lũ đã được ban hành sớm và điều chỉnh ngày càng sát
với thực tế, đạt hiệu quả tốt, vừa giảm nhẹ lũ cho hạ du sông Hồng vừa duy trì
thích đáng sản lượng điện
Một số đề nghị:
1. Có biện pháp khắc phục những
thiếu sót hiện nay như đã nêu ở phần trên. Rà lại qui hoạch thủy điện trên
nguyên tắc sử dụng tổng hợp nguồn nước
trong lưu vực, hài hòa lợi ích dùng nước cho các mục tiêu dân sinh, kinh tế và
môi trường. Ban hành những thể chế đảm bảo tính chính xác, chặt chẽ, nghiêm túc
trong xây dựng và vận hành thủy điện.
2. Thành lập Ủy ban An toàn đập cấp
quốc gia do Phó Thủ tướng chủ trì. Đây là cơ quan liên ngành để kiểm tra, giám
sát và ra quyết định về an toàn đập cho tất cả các đập do các ngành và các chủ
đầu tư khác nhau hiện đang quản lý, vừa theo những qui định thống nhất, vừa khắc
phục tình trạng rào chắn, bưng bít, bóp méo thông tin đối với công việc hệ trọng
này, vừa tập hợp được những chuyên gia có kinh nghiệm nhất (theo đúng nghĩa).
Phải nhấn mạnh ‘theo đúng nghĩa’ vì xây dựng và quản lý đập có những yêu cầu kỹ
thuật khác biệt với các ngành xây dựng khác, đó là việc xây dựng những công
trình khối lớn bằng những vật liệu đất, đá, bê tông đầm lăn,... chịu áp lực khối nước lớn.
3. Như đã trình bày ở trên, có thể
nói thủy điện có 2 chức năng: thứ nhất
là tạo ra điện năng và thứ hai là
điều tiết điện năng. Những thủy điện lớn mà ta có thể khai thác hiệu quả
thì hầu hết đã được xây dựng xong. Theo
tính toán của Tổng sơ đồ Quy hoạch điện VII, được Chính phủ phê duyệt ngày
21-7-2011, thủy điện ở Việt Nam hiện chiếm 32,3% tổng sản lượng điện toàn quốc.
Vai trò của thủy điện sẽ giảm dần, đến 2030 chỉ còn chiếm 9,3%. Nghĩa là sản lượng
điện do thủy điện sẽ không tăng thêm, chức năng thứ nhất không đòi hỏi đầu tư
nhiều nữa. Cần chú trọng thích đáng chức năng thứ hai để điều tiết các nguồn điện
năng khác mà sẽ phải phát triển trong những thập kỷ tới.
GS.TSKH. Phạm Hồng Giang
tonghoixaydungvn.org
Blogger Comment
Facebook Comment