Trong
suốt hành trình dọc vùng vịnh Thái Lan, nơi có đặc điểm sinh thái tương đối gần
với Việt Nam, chúng tôi có nhiều trải nghiệm về những thách thức môi trường và
sự phát triển. Ở đó, vai trò của người dân tham gia bảo vệ môi trường gần như
có tính quyết định thành bại cho việc gìn giữ thiên nhiên.
Hoang
tàn vùng biển Tha Sala
Tha
Sala cách Bangkok hơn 900km, giờ là một vùng biển hoang tàn. Từng rặng dừa ngã
gục, những ngôi nhà lầu kiên cố nghiêng đổ theo sóng biển, khắp vùng vọng lại
tiếng gầm gừ giận dữ của những đợt sóng lớn nối tiếp vào bờ, xoá tất cả những
gì trên đường bờ biển dài hơn 80km. Diện tích hơn 10.000 hecta gồm nhà ở, làng
mạc, đầm tôm, đường sá… đã bị nuốt chửng chỉ trong năm năm, và biển vẫn tiếp tục
ngày đêm lấn vào bờ.
Thảm
hoạ từ biển khơi
Hiện
tượng xói mòn tại quận Tha Sala thuộc tỉnh Nakhon Si Thammarat ở vịnh Thái Lan
bắt đầu xảy ra từ năm 2005 và ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Sóng lớn cứ dồn dập
đổ vào bờ và kéo đi những phần đất, sạt lở nghiêm trọng cho toàn khu vực. Trước
khi nhà chức trách và các chuyên gia vào cuộc, cư dân trong vùng từng ngày sống
trong thấp thỏm, và liên tục dọn nhà vào sâu trong đất liền để tránh sóng lớn.
Gia đình Suchart gồm vợ và ba con nhỏ đã phải dọn nhà đến lần thứ năm mà đến
nay những con sóng dạt vào chỉ còn cách nền nhà chưa đầy 5m. Suchart cho biết:
“Các thế hệ trước của gia đình tôi đều sống trong vùng biển này, nhưng chưa bao
giờ chứng kiến hay nghe kể về hiện tượng xói mòn. Nhà cũ ở ven biển và biển lúc
đó cách ngôi nhà hiện tại hơn 500m. Rồi sóng lên đến đâu thì dọn nhà lấn vào đất
liền đến đó. Năm nào cũng phải dọn nên cũng mệt mỏi, giờ đây, Suchart làm nhà tạm
bợ che mưa nắng chứ không thể làm kiên cố được vì làm vững mấy cũng bị sóng cuốn
trôi hết cả”. Không đủ tiền để làm đầm nuôi tôm, cả gia đình Suchart sống nhờ
vào nghề đi biển. Anh nói thêm: “Mình là ngư dân, biển có lấn đến đâu thì cuộc
đời cũng chỉ biết hướng ra biển”.
Phải gánh chịu sự xâm thực dữ dội của biển, Nakhon Si Thamarat những ngày qua lại đang chìm ngập trong mưa lũ. Nước lũ có nơi cao đến 2m đã phá huỷ hơn 250 ngôi nhà, cô lập hơn 1.000 dân, con số thương vong tính đến nay đã là 21 người. Dự báo những ngày tới tình hình mưa lũ ở cả khu vực miền nam Thái Lan vẫn diễn ra rất phức tạp, gây trở ngại nhiều cho công tác cứu hộ cứu nạn.
Những
người già trong vùng kể lại khu vực bị xói mòn ngày xưa là rừng ngập mặn. Khi
phong trào nuôi tôm phát triển, diện tích rừng này bị xoá dần. Tôm đã đem lại một
nguồn lợi lớn về kinh tế cho toàn vùng, biến ngôi làng hẻo lánh trở thành một
thị tứ sầm uất, đường sá mở rộng, nhà cửa khang trang. Nhưng, chỉ trong một thời
gian ngắn, sóng biển tàn phá đi tất cả, với cấp độ ngày càng dữ dội hơn. Đứng
trước vùng biển xác xơ, nhà cửa điêu tàn vì sóng dữ, Ukrit – một ngư dân ở làng
Tampon Thapaya ngao ngán: “Tôi ở đây hơn 20 năm, nhà nằm ngay vùng rừng đước và
nông trại dừa, sau phá đi làm đầm tôm, khoảng sáu năm trước thì sóng đánh bể đầm
tôm, cuốn bay hết nhà cửa rồi”.
Có
không ít những nỗ lực lấy sức người để chống chọi với thiên nhiên như trường hợp
của già Noi – một ngư dân ở làng Sra Boua của quận Tha Sala quyết tâm sống chết
để bảo vệ phần đất chỉ rộng khoảng 120m2 của mình. Già Noi ngày ngày dùng cây rừng
đóng cừ, nhặt đá, bọc lưới xếp quanh mảnh đất nhỏ ấy để ngăn chặn các đợt sóng
xô vào. Năm năm rồi như thế, vùng đất của già Noi trước nằm sâu trong đất liền,
giờ trơ như một cái mũi chĩa ra biển. Chẳng biết sự cầm cự của già Noi được bao
lâu, già cố sức giữ đất, chỉ vì đó là phần đất từ mấy đời của cha ông để lại.
Những
cảnh báo…
Những
cảnh báo về sự sạt lở nghiêm trọng của vùng biển Tha Sala lại được phát hiện một
cách tình cờ từ vị giáo sư Noppara của trường đại học Walailak khi ông làm một
chuyến đạp xe địa hình – môn thể thao mà ông yêu thích – đến vùng biển này từ
năm năm trước. Kinh ngạc khi nhìn thấy biển đang lấn dần vào đất liền, từ đó
ông bắt đầu nghiên cứu về hiện tượng xói mòn, làm những chuyến thực địa để cảnh
báo cho ngư dân và kêu gọi những tổ chức, những nhà khoa học nhập cuộc.
Giáo
sư Noppara kể lại: “Khi thấy ngư dân trong vùng đang khốn đốn vì bị biển lấn bờ,
nhìn những ngôi nhà, những bàn thờ thiên của người dân đặt ngoài sân ngập chìm
trong từng đợt sóng lớn, những đầm tôm cày nát tung, những rặng dừa bị xới tung
gốc, tôi từ ngạc nhiên, đến giựt mình và sợ hãi vì chưa ai nói cho tôi biết,
cũng chưa nghe qua một báo cáo hay tin tức gì về hiện tượng này. Và tôi hiểu,
đó không chỉ là vấn đề nghiêm trọng của vùng Tha Sala mà còn là thảm hoạ của cả
đất nước. Từ đó tôi liên tục cập nhật những nghiên cứu, bằng số liệu và hình ảnh
để kêu gọi sự tham gia của các nhà khoa học, cùng tìm ra những giải pháp để ngăn
chặn. Nhưng năm năm trôi qua, mọi biện pháp kháng cự lại thảm hoạ này rất chậm
chạp. Đã có hơn năm tổ chức từ trung ương đến địa phương vào cuộc nhưng không
đem lại kết quả, một phần do thiếu kinh phí, kế hoạch triển khai chậm, việc hợp
tác giữa các bên không đồng nhất. Hoàng gia Thái Lan cũng đã công bố trong
chương trình nghị sự về vấn đề này vào năm ngoái để đưa ra các biện pháp giải
quyết nạn xâm thực của biển, nhưng cũng không mấy thành công. Gần như không một
lời lý giải nào khả quan về việc ngăn chặn hiện tượng xói mòn này cả”.
Theo
suốt lộ trình hơn 80km ấy, giáo sư Noppara đưa tôi tiếp đến kênh điều nước mặn
thuộc dự án Hoàng Gia được xây dựng từ hơn hai năm trước ở Preak Muang, nhưng
nay cũng đã bị sóng đánh tan tành, con đường bờ kè đầy kiên cố rộng như một đường
cao tốc cũng bị sóng đánh sạt lở nham nhở đến mức không thể sử dụng được nữa.
Những ngôi nhà 2 – 3 tầng, với giá trị xây dựng gần 4 tỉ tiền Việt cũng không
trụ nổi với sóng biển, tất cả đang bị nhận chìm dần theo từng ngày.
Trông
người mà nghĩ đến ta
Theo
nghiên cứu của viện Hải dương học Nha Trang và khoa địa lý đại học Khoa học tự
nhiên: “Bờ biển Việt Nam với chiều dài 3.444km, có 29 tỉnh và thành phố trực
thuộc Trung ương nằm ven bờ biển. Bờ biển của tất cả các địa phương này đều
đang bị xói lở ở các quy mô rất khác nhau… Qua xử lý ảnh vệ tinh, từ năm 1990 đến
nay, hầu như toàn bộ đường bờ biển nước ta đều đang bị xói lở”. Những vùng bờ
biển, hải đảo từ Phú Quốc, Cà Mau, Nha Trang, Phú Quý, Quảng Ninh… cũng đang
ngày phải gồng mình những vấn đề tương tự ở vịnh Thái Lan. Dễ thấy những mối lợi
trước mắt từ việc nuôi cá bè tràn ngập ở đảo Phú Quý, Quảng Ninh, việc bùng nổ
du lịch lặn biển ngày ngày ngoài khơi vịnh Nha Trang, triệt hạ rừng đước để phục
vụ du lịch ở mũi Cà Mau... Thế nhưng, đổi lại là hậu quả lâu dài: thảm san hô
ngày bị thu hẹp, tình trạng sạt lở tràn lan. Trong khi đó, ý thức người dân trước
các vấn đề môi trường… lại ít được đề cập.
Bài
học từ sạt lở
Phá
rừng ngập mặn làm đầm nuôi tôm, để đất bạc màu, bỏ trơ trọi không khai thác, tạo
điều kiện thuận lợi cho biển xâm thực vào bờ là câu chuyện xảy ra ở Tha Sala của
tỉnh Nakhon Si Thammarat (Thái Lan). Việt Nam đã và đang gặp tình trạng tương tự
khi từ mười năm trước, những nhà môi trường đã lập một dự án về bản đồ sạt lở
khu vực miền Trung bởi cấp độ biển xâm thực đất liền ngày một gia tăng đáng báo
động. Ở miền Tây Nam bộ, những vùng bờ biển như Cà Mau, Trà Vinh cũng đang bị
biển xâm thực từng ngày.
Mũi
Cà Mau – vùng đất được đầu tư phát triển du lịch, từ năm 2000 đã xuất hiện những
công trình bêtông với vốn đầu tư 9 tỉ đồng, ngân sách làm đường nội bộ 2,6 tỉ đồng
và cái thấy được là những ngôi nhà bêtông mọc lên như Vọng Hải Đài, rồi con đường
rộng 5m, dài 800m phục vụ du lịch… Những công trình này triệt hạ đáng kể lượng
cây đước, con đường cũng biến thành đập chắn thuỷ triều khiến vùng cây đước
xung quanh tàn lụi dần. Chưa kể những dự án thu hẹp rừng đước xây nhà nghỉ phục
vụ du lịch. Và kết cục là khi bêtông hoá, rừng bị triệt hạ nên sóng biển lấn dần
đất phù sa khiến mũi Cà Mau đang mất dần.
Theo
một công bố của ông Nguyễn Long Hoai – chi cục trưởng chi cục Thuỷ lợi tỉnh Cà
Mau, thì: “Tình hình sạt lở đã và đang diễn ra trên nhiều nơi ở các tuyến bờ biển
của Cà Mau, và khu vực mũi Cà Mau chỉ là điển hình”. Giải pháp xử lý thì sao?
Người ta loay hoay xây kè giữ đất, rồi cũng bị sóng biển cuốn trôi. Sau đó, cắm
thân dừa dày đặc rồi đổ đất bên trong, cũng bị sạt lở. Tương tự như cách giải
quyết vấn đề sạt lở ở Tha Sala, hàng núi tiền với những dự án xây kè chắn sóng
của chính phủ, của hoàng gia, đều tan tành trước sức mạnh của biển. Ở Cà Mau
người ta cũng đang đi theo lối của Thái Lan, còn người dân thì bất lực nhìn
sóng biển mỗi ngày liếm dần đất mũi. Các công trình xây kè chắn sóng không mấy
khả thi mà nguyên do chính được báo cáo là chủ yếu do thời tiết. Đã từng có một
dự toán làm kè ước tính 90 tỉ đồng/km và mới đây nhất, vào trung tuần tháng
4/2011, một dự án thiết kế bờ kè tại mũi Cà Mau với ước tính kinh phí xây dựng
khoảng 30 tỉ đồng.
Nguyên
do của sạt lở ở Việt Nam thường dồn cho thiên tai, tác động của con người lại
ít được nhắc đến. Việc tàn phá rừng ngập mặn (Cà Mau), khai thác cát biển làm vật
liệu xây dựng, lấy sa khoáng (bờ biển miền Trung, Thanh Hoá), việc xây đập thuỷ
điện tại các dòng sông cũng làm giảm lượng trầm tích đổ ra biển, khiến cho năng
lượng sóng giải phóng và dồn thẳng vào bờ gây sạt lở nghiêm trọng.
Ý
thức từ cộng đồng
Những
vấn đề môi trường gặt hái được thành công như câu chuyện dân chài Na Thab dùng
đước lấn biển, người dân Chumphon dùng dự án nuôi sò móng cọp ngăn chặn việc
xây dựng nhà máy sản xuất năng lượng hạt nhân, việc bảo tồn cây hành nước ở
Ranong… đều có chung điểm nhấn nổi bật, đó là sự chung sức từ chính người dân địa
phương. Khi đối diện với những vấn đề thực tại về môi trường gây ảnh hưởng đến
cộng đồng, người dân tự đứng ra bảo vệ môi trường sống cho họ trước khi những vấn
đề ấy được nhà chức trách quan tâm.
Người
dân ở vùng vịnh Thái Lan không phải ai cũng hiểu biết những kiến thức sách vở về
môi trường. Trước những nguy cơ xâm hại đến môi sinh, họ tự tìm cách khắc phục.
Chỉ người dân mới hiểu được họ đang cần gì, muốn gì từ môi trường sống của họ.
Rừng đước Na Thab từng bị tận diệt, việc lấn biển thành công hôm nay nhờ kết quả
từ chính cộng đồng của làng suốt 20 năm qua. Sò móng cọp ở Chumphon từng là thực
đơn khoái khẩu trong các nhà hàng địa phương, khi có dự án năng lượng hạt nhân
thì người dân biết chung tay bảo tồn và nhân rộng giống sò quý hiếm để giữ an
toàn cho phần đất của họ.
Việc
khai thác vẻ đẹp và môi trường sống trong sạch của cây hành nước làm du lịch
sinh thái ở Ranong gắn liền với việc bảo tồn cây hành nước, cũng chính người
dân địa phương tự làm. Khác với kiểu khai thác du lịch một chiều, tức là chỉ
khai thác, xây dựng những dịch vụ trên vùng đất có tiềm năng du lịch để thu lợi
trước mắt mà quên đi ý thức bảo tồn. Hậu quả lâu dài sẽ khó khắc phục, câu chuyện
mũi Cà Mau là ví dụ điển hình. Những bài học thành công từ sự góp sức của cộng đồng
ở vịnh Thái Lan nghe đơn giản, nhưng không dễ áp dụng vào những vùng tương tự ở
Việt Nam khi mà ý thức cộng đồng về môi trường sống của chính mình còn nhiều thụ
động và hạn chế.
Lam
Phong (Sài gòn Tiếp thị - tiêu đề do Ashui.com đặt)
Blogger Comment
Facebook Comment